Tăng cường kiểm soát, giảm đáng kể ô nhiễm, bảo vệ môi trường biển
Việt Nam có đường bờ biển
dài hơn 3.260 km, vùng đặc quyền kinh tế biển gấp khoảng ba lần diện tích đất
liền, với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ. Tài nguyên
và lợi thế do biển mang lại hứa hẹn nhiều triển vọng to lớn đối với sự phát triển
của đất nước. Những năm qua Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách về phát triển kinh tế biển, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường
biển.
Tình trạng ô nhiễm môi trường biển và hải đảo
Trong những năm qua, sự
gia tăng các nguồn thải từ lục địa, đặc biệt là theo các dòng chảy từ sông ra
biển dẫn đến môi trường biển nhiều nơi đang có xu hướng suy giảm về chất lượng.
Nhiều vùng cửa sông ven
biển đã bị ô nhiễm do nước thải công nghiệp, đô thị. Tình trạng xả thải các chất
thải chưa qua xử lý hay xử lý chưa đạt quy chuẩn diễn biến ngày càng phức tạp,
gây thiệt hại về kinh tế, đời sống, sinh kế cộng đồng dân cư ven biển và những
tổn hại khó lường đối với hệ sinh thái biển.
Tình trạng ô nhiễm chất
thải hữu cơ và dầu mỡ đã và đang diễn ra ở các tỉnh thành ven biển, đặc biệt là
vùng cửa sông các tỉnh phía Bắc và dọc dải ven biển Đồng bằng sông Cửu Long.
Đối với các nguồn thải
trên biển, nguồn thải từ hoạt động nuôi trồng thủy sản và hoạt động từ du lịch
biển có mức độ tác động lớn nhất và là nguyên nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi
trường cục bộ tại một số vịnh, đầm phá ven biển. Bên cạnh đó, sự gia tăng chất
thải nhựa đại dương những năm gần đây trở thành vấn đề toàn cầu và là áp lực lớn
trong quản lý chất thải trên biển ở Việt Nam.
Cùng với phát triển kinh tế biển, sự tăng trưởng của các ngành du lịch dịch
vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác khoáng sản và dầu khí, công nghiệp, khai
thác và nuôi trồng thủy sản, việc tập trung dân cư, quá trình đô thị hóa tại
các vùng ven biển đã và đang tạo nhiều áp lực đến môi trường biển do sự gia
tăng lượng nước thải, chất thải rắn cũng như nhu cầu khai thác, sử dụng tài
nguyên.
Theo Tổng cục Thống kê
(2019), nước ta có 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển với tổng
dân số khoảng 51 triệu người, mật độ dân số cao hơn trung bình cả nước 1,9 lần,
trong số đó 34% là dân đô thị. Hệ thống đô thị ven biển trải dài dọc bờ biển từ
Bắc đến Nam, trong đó tập trung phần lớn ở khu vực vùng biển và ven biển Bắc
Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ. Kinh tế biển phát triển mạnh ở hầu hết các tỉnh,
thành có biển…
Tuy nhiên, theo đánh giá
của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong những năm qua, sự gia tăng các nguồn thải
từ lục địa, đặc biệt là theo các dòng chảy sông ra biển dẫn đến môi trường biển
nhiều nơi đang có xu hướng suy giảm về chất lượng. Nhiều vùng cửa sông ven biển
đã bị ô nhiễm do nước thải công nghiệp, đô thị. Tình trạng xả thải các chất thải
chưa qua xử lý hay xử lý chưa đạt quy chuẩn diễn biến ngày càng phức tạp, gây
thiệt hại lớn về kinh tế, đời sống, sinh kế của cộng đồng dân cư ven biển và những
tổn hại khó lường đối với các hệ sinh thái, sinh vật biển.
Các sự cố môi trường biển thường để lại hậu
quả nặng nề làm gia tăng ô nhiễm đối với môi trường, hệ sinh thái biển
Đặc biệt, việc xảy ra một
số sự cố môi trường do xả thải chất thải công nghiệp (điển hình là sự cố môi
trường nghiêm trọng do công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa) và sự cố
tràn dầu, ô nhiễm môi trường biển. Các sự cố môi trường biển thường để lại hậu
quả nặng nề làm gia tăng ô nhiễm đối với môi trường, hệ sinh thái biển, tác động
trực tiếp đến phát triển kinh tế biển, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của người
dân. Các tác động trên đã làm chất lượng môi trường nước biển bị suy giảm, tình
trạng ô nhiễm chất hữu cơ và dầu mỡ đã và đang diễn ra ở các tỉnh thành ven biển…
Bên cạnh đó, biến đổi
khí hậu, nước biển dâng ngày càng gia tăng, gây nhiều tổn thất to lớn về người,
tài sản, cơ sở hạ tầng, ảnh hưởng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tác động
xấu đến môi trường biển. Đặc biệt, tình trạng nước biển dâng trong bão kèm theo
sóng lớn có thể gây thiệt hại nghiêm trọng do mực nước dâng cao bất ngờ, gây ngập
lụt khu vực ven biển…
Hiện nay, một vấn đề
đáng lo ngại khác là việc các hệ sinh thái biển đang bị khai thác quá mức, thiếu
tính bền vững dẫn đến tình trạng suy giảm đa dạng sinh học. Đến nay đã ghi nhận
khoảng 100 loài sinh vật biển nước ta có nguy cơ đe dọa và quý hiếm đã được đưa
vào Sách đỏ Việt Nam và Danh mục đỏ IUCN để yêu cầu phải có biện pháp bảo vệ
(37 loài cá biển, 6 loài san hô, 5 loài da gai, 4 loài tôm rồng, 1 loài sam, 21
loài ốc, 6 loài hai mảnh vỏ, 3 loài mực)…
Giải pháp bảo vệ môi trường biển và hải đảo
Biển và hải đảo Việt Nam có vai trò và vị thế đặc biệt quan trọng trong
phát triển KT – XH, bảo vệ chủ quyền, một trong những ưu tiên hàng đầu trong
toàn hệ thống chính trị, được cụ thể hóa trong các nghị quyết của Đảng và Chính
phủ.
Bên cạnh đó, hệ thống
chính sách, pháp luật, bộ máy quản lý nhà nước về biển, đảo từ trung ương đến địa
phương từng bước được hoàn thiện và phát huy hiệu lực, hiệu quả. Hoạt động điều
tra cơ bản tài nguyên môi trường biển và hải đảo ngày càng được quan tâm đầu tư
và đẩy mạnh. Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai
thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ đang được xây dựng. Công tác kiểm
soát tài nguyên và bảo vệ môi trường biển được chú trọng. Hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển được tăng cường.
Tuy nhiên, công tác BVMT
biển vẫn còn nhiều khó khăn, trước hết là do nhận thức và trách nhiệm về
BVMT biển còn hạn chế. Tư duy phát triển xem trọng các yếu tố kinh tế,
tăng trưởng ngắn hạn hơn các yếu tố môi trường; coi trọng lợi ích
trước mắt hơn lợi ích và hệ quả lâu dài; cơ cấu tổ chức trong công tác
quản lý biển và hải đảo tại các địa phương chưa có sự thống nhất. Mặt khác, các
quy định pháp lý đặc biệt là các chế tài về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực tài nguyên, môi trường biển và quy định về lấn biển đang trong quá
trình xây dựng; đồng thời không có lực lượng thanh tra chuyên ngành về quản lý
tổng hợp tài nguyên, BVMT biển và hải đảo dẫn đến công tác giám sát việc thực
thi các quy định BVMT biển còn hạn chế.
Trước tình trạng trên, Bộ
Tài nguyên và Môi trường cho rằng cần đẩy mạnh triển khai cá giải pháp tăng cường
và nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo được
đưa ra bao gồm: hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật và thể chế về lĩnh vực
biển và hải đảo giai đoạn 2020-2025 theo Nghị Quyết số 36-NQ/TW; tiếp tục kiện
toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường biển;
tăng cường năng lực và hợp tác quốc tế; triển khai Chương trình trọng điểm điều
tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030; xây dựng hệ thống
quan trắc môi trường biển; hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và cơ chế quản lý,
khai thác dữ liệu về điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo;
tuyên truyền, nâng cao nhận thức và đào tạo nguồn nhân lực.
Mới đây, Quyết định số
450/QĐ-TTg ngày 13/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược bảo vệ
môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 tiếp tục đề ra giải
pháp tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo.
Theo đó, tăng cường kiểm
soát, ngăn ngừa ô nhiễm tại các khu vực ven biển; đầu tư, củng cố cơ sở hạ tầng,
trang thiết bị, thực hiện thu gom và xử lý chất thải nguy hại, nước thải, chất
thải rắn sinh hoạt đạt quy chuẩn môi trường tại các địa phương có biển.
Chủ động phòng ngừa, giảm
thiểu và xử lý hiệu quả các nguồn gây ô nhiễm từ các hoạt động khai thác khoáng
sản, dầu khí, vận tải và khai thác thủy sản trên biển; xác định vùng rủi ro ô
nhiễm môi trường biển và hải đảo, kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhận chìm trên
biển. Xây dựng và thực hiện các đề án bảo vệ, bảo tồn hệ sinh thái biển gắn với
bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tiếp tục thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa
đại dương đến năm 2030 theo Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 04/12/2019 của Thủ
tướng Chính phủ. Xây dựng và áp dụng các mô hình khép kín thu gom, phân loại,
tái sử dụng và xử lý nước thải, chất thải rắn sinh hoạt và chất thải nguy hại tại
các hải đảo, đặc biệt ở các đảo lớn như Phú Quốc, Côn Đảo, Cát Bà…
(Theo Tạp chí điện tử Môi trường và cuộc sống)